Từ đầu thế kỷ XX, với sự ra đời của giấy lọc cà phê, thức uống này đã không còn thực sự “hữu cơ” và thân thiện với môi trường như trước đó. Đặc biệt đúng đối với kỹ thuật Pour Over (hay còn gọi là pha Drip) khi toàn bộ quá trình chiết suất vẫn phụ thuộc vào một mảnh giấy lọc mỏng manh. Mỗi một cốc cà phê được pha bằng V60, Chemex, Melitta, hay bất cứ bộ dụng cụ nào có dùng giấy lọc nghĩa là chúng ta đang tiêu thụ một phần gỗ trong ngành công nghiệp giấy.
Tuy nhiên, giấy lọc cà phê luôn thể hiện sự hữa ích và tiện lợi trong làn sóng cà phê thứ ba, thậm chí có thể xem phần lớn các hương vị tuyệt vời được khám phá trong làn sóng chất lượng cà phê đều được chiết xuất ra từ giấy lọc và kỹ thuật Pour Over. Vậy ai đã thực sự phát minh ra sản phẩm này?
Bất kể cà phê đã phổ biến đến đâu, thì người tiêu dùng trên thế giới đã từng có giai đoạn phá hoại loại thức uống này, bằng cách đun sôi nó lên, lọc bã và rót ra. Tuy nhiên, vào những năm 1900 họ có thể làm như thế tiện lợi hơn với phương pháp pha cà phê dạng “chiết ngâm” - đúng ra chỉ là một phương pháp lọc đơn giản. Cho đến đầu thế kỷ 20, những chiếc bình “chiết ngâm” đã tạo ra một thứ nước pha chế chiết xuất quá mức. Các bà nội trợ trên khắp châu Mỹ và châu Âu chỉ chắc chắn chỉ có được cà phê quá đắng, hoặc quá loãng - tùy vào lượng nước họ sử dụng.
Nhưng mọi việc đã thay đổi, đó là vào năm 1908, khi Melitta Bentz - một bà nội trợ ở vùng Đông Đức, quá mệt mỏi với việc lọc bã cà phê trong cốc của mình. Melitta đã khởi động một cuộc cách mạng pha chế cà phê, khi đục một các lỗ dưới chiếc cốc thiết, lót vào một tờ giấy nháp của con trai, và tạo ra một phương pháp pha cà phê lọc vượt bậc hơn hẳn, nhanh chóng lan rộng khắp châu Âu và trở thành một triều đại thương hiệu Melitta.
Mọi người thường không dành thời gian suy nghĩ về việc sử dụng loại giấy lọc nào khi pha cà phê. Việc hiểu được chúng được sản xuất như thế nào, nguyên liệu nào được sử dụng trong quá trình sản xuất và thành phần của chúng ảnh hưởng như thế nào đến việc chiết xuất,.. Nhưng trước tiên, chúng ta hãy lùi lại một bước và xem xét chính xác những gì chúng ta muốn từ bộ lọc cà phê của mình.
Chức năng cơ bản của giấy lọc rất đơn giản: Nó phải tách bã ra khỏi nước pha trong quá trình chiết xuất để tạo ra cà phê có vị sạch, ít hoặc không có cặn. Tuy nhiên, ngoài điều này, chất lượng thực tế của bộ lọc giấy cũng có thể thay đổi đáng kể. Mức độ dày và xốp khác nhau của giấy lọc sẽ thay đổi hiệu quả chiết xuất chất thơm và dầu từ cà phê xay, cuối cùng làm thay đổi hương vị mà bạn trải nghiệm trong cốc.
Để bắt đầu, hãy xem xét giấy lọc của bạn được làm bằng gì. Các nguyên liệu làm giấy phổ biến bao gồm cỏ, rơm và gỗ. Khi bạn đã có nguyên liệu thô, các loại sợi cellulose thực vật này sau đó được ép nóng với nhau ở các mặt để tạo thành hình nón, hoặc bất kỳ hình dạng nào mà nó cần.
Chiều dài sợi cellulose nguyên liệu thường quyết định độ xốp của giấy lọc, sau đó có ảnh hưởng đến các hợp chất và dầu được chiết xuất vào cốc cà phê. Tre và abaca (một loại chuối) có sợi dài nhất trong số các nguyên liệu thô phổ biến được sử dụng để sản xuất giấy lọc, và do đó xốp hơn (có nghĩa là nhiều dầu hơn vào cốc của bạn). Ngược lại, bột giấy bạch đàn có sợi ngắn nhất và ít xốp nhất trong số các loại bột giấy được sử dụng để sản xuất giấy lọc.
Tiếp đến, bạn sẽ cần suy nghĩ về hình dạng của giấy lọc. Mỗi loại giấy lọc sẽ chứa một lượng nước và cà phê xay khác nhau, và mỗi loại sẽ phù hợp với một hình dạng cụ thể (chẳng hạn như bộ lọc có đáy phẳng hay hình nón). Hario V60 và Chemex là hai trong số những dụng cụ Pour Over sử dụng giấy lọc hình nón phổ biến nhất hiện nay, trong khi Kalita Wave và Fellow Stag X lsử dụng giấy lọc đáy phẳng thông thường.
Mỗi loại cần có giấy lọc tương ứng của riêng chúng. Vì theo các nghiên cứu của SCA, sự khác biệt về hình dạng giữa hai kiểu hình giấy lọc có thể ảnh hưởng đến dòng chảy của nước trong suốt quá trình chiết xuất. Khi tốc độ dòng chảy thay đổi, nó làm thay đổi cái mà các nhà khoa học gọi là “sự truyền khối” - tốc độ nước di chuyển qua cà phê xay, và dẫn đến khác biệt trong hiệu quả chiết xuất.
Cụ thể hơn, đối với cà phê rang nhạt, giấy lọc đáy phẳng mang lại nhiều hương vị ngọt ngào và hương hoa hơn, trong khi giấy lọc hình nón cho hương vị nặng hơn một chút và giống như quả mọng; Đối với cà phê rang đậm, giấy lọc đáy phẳng mang lại nhiều hương vị sô cô la, gỗ và hạt hơn trong cốc. Ngược lại, giấy lọc hình nón tăng cường vị đắng (theo SCA từ perfectdailygrind).
Các chuyên gia từ Perfect daily grind cũng đưa ra lời khuyên về độ dày của giấy lọc, mà có thể bạn cần quan tâm. Các loại giấy lọc dày (khoảng 0,28mm - theo thông số của nhà sản xuất) nên được sử dụng với cà phê thô xay và được rang nhẹ hơn; “Đối với cà phê xay thô hơn và rang nhẹ hơn, nó khó hòa tan hơn, vì vậy chúng thường có thời gian ủ lâu hơn” - theo Hiro Lesmana nhà vô địch Brewers Cup Indonesia 2018.
Ngược lại, giấy lọc mỏng hơn (khoảng 0,15mm) lý tưởng cho cà phê rang đậm hơn và được xay mịn, cả hai đều dễ chiết xuất hơn - có nghĩa là tổng thời gian ủ cà phê ngắn hơn.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng cà phê sau khi chiết xuất có hương vị không tốt thường là hậu quả của kỹ thuật rót nước kém. Người mới bắt đầu với Pour over thường thiếu kinh nghiệm kiểm soát tốc độ dòng chảy của họ trong quá trình rót - và do đó, giấy lọc không phải là nguyên nhân chính.
Ngày nay, những người yêu thích cà phê được pha bằng phương pháp Pour Over (hoặc ngay cả đối với Aero Press) đều cần đến giấy lọc, sự phát triển kỹ thuật đã cho ra đời các loại giấy lọc tinh vi và thuận tiện hơn rất nhiều, từ loại giấy giúp tăng cường hương vị cà phê, đến loại có thể giảm thiểu vị đắng. Và trong khi một số người sử dụng giấy lọc không tẩy (unbleached) có màu vàng, số khác lại dùng lọa giấy lọc được tẩy trắng (bleached) - Đây cũng là chủ đề được tranh luận khá sôi nổi hiện nay.
Quay lại với Melitta, đây cũng là công ty đầu tiên cung cấp giấy lọc không tẩy trắng (màu nâu tự nhiên) và sau đó, họ đã làm trắng bằng quy trình tẩy trắng không sử dụng Clo - được xem là tiêu chuẩn công nghiệp ngày nay.
Link nội dung: https://appstore.edu.vn/giay-loc-ca-phe-a53843.html